
XÉT NGHIỆM VÀ PHÂN TÍCH MẪU ADN

Phương pháp thực hiện
Các biến thể được phân loại theo các tiêu chuẩn và hướng dẫn của Trường Đại học Y khoa Di truyền và Di truyền học Hoa Kỳ (ACMG). Phân loại biến thể gây bệnh có thể được cập nhật theo thời gian khi có thêm thông tin liên quan đến ý nghĩa lâm sàng của chúng.
Tất cả các ước tính rủi ro là gần đúng và dựa trên các nghiên cứu khoa học đã được công bố. Những nghiên cứu này đã xác định mối liên quan giữa các biến thể cụ thể và tăng nguy cơ đối với một số tình trạng sức khỏe. Các nghiên cứu lâm sàng thường được thực hiện trên một bộ phận dân số và có thể không đại diện chính xác cho dân số nói chung.

Giải thích và ước tính rủi ro
Các vấn đề cơ bản về Giải mã ADN
ADN là gì?
Cấu trúc phân tử ADN giống như một thang xoắn được làm bằng hai sợi, được biết đến như là một ‘hình xoắn’. Những sợi của DNA chứa các thông tin dưới hình thức một mã số, lần lượt xác định đặc điểm của mỗi cá nhân và đặc điểm của cơ thể mỗi người. Có bốn loại khối xây dựng lên ADN (A, T, G, C) và trật tự của chúng là mã di truyền của con người.
Một nửa của ADN của một người được thừa hưởng từ mẹ, và một nửa là thừa kế từ người cha. Tuy nhiên, trong khi dấu vân tay không có giá trị cho thiết lập các mối quan hệ gia đình, các mật mã di truyền chứa trong chuỗi ADN lại có giá trị cho việc thiết lập mối quan hệ gia đình, bởi vì chúng được thừa hưởng từ thế hệ trước.
Khái niệm và cấu trúc của gen
Gen là 1 đoạn phân tử ADN mang thông tin mã hoá cho một sản phầm xác định (1 chuỗi pôlipeptit hay một phân tử ARN).
Có nhiều loại như gen cấu trúc, gen điều hoà …
– Gen cấu trúc là gen mang thông tin mã hoá cho các sản phẩm tạo nên thành phần cấu trúc hay chức năng tế bào.
– Gen điều hoà là những gen tạo ra sản phẩm kiểm soát hoạt động của các gen khác
Mã di truyền là trình tự sắp xếp các nuclêôtit trong gen (trong mạch khuôn) quy định trình tự sắp xếp các axit amin trong prôtêin
– Trong ADN chỉ có 4 loại nu (A, T, G, X) nhưng trong prôtêin có khoảng 20 loại axit amin. Do đó mã di truyền phải là mã bộ ba (còn gọi là codon).
– Mã di truyền gồm: bộ 3 mã gốc trên ADN, bộ 3 mã sao trên mARN và bộ 3 đối mã trên tARN. Ví dụ: mã gốc là 3’-TAX…-5’ tương ứng mã sao là: 5’-AUG…-3’ và mã đối mã là: UAX tương ứng axit amin được quy định là Met.
Phương pháp ghi nhận kiểu gen
Đối với hầu hết các SNP, hệ thống sẽ ghi tên điểm đánh dấu (thường là số rsID hoặc số ID nội bộ), vị trí gen chính xác của nó, các biến thể có thể có tại điểm đánh dấu đó (A, T, G hoặc C) và các biến thể cụ thể bạn có, tức là kiểu gen của bạn. Bởi vì bạn có hai bộ nhiễm sắc thể – một từ mẹ và một từ bố – bạn thường có hai biến thể ở mọi vị trí và kiểu gen của bạn sẽ được báo cáo là một cặp biến thể, ví dụ: “G / A.”
Trong một số trường hợp, kiểu gen của bạn sẽ được ghi nhận là một biến thể duy nhất vì không phải tất cả ADN đều được di truyền theo cặp nhiễm sắc thể, ví dụ, ADN ty thể và, đối với hầu hết các nhiễm sắc thể X và Y ở nam giới).
Đôi khi một số SNP có thể được ghi nhận dưới dạng chèn hoặc xóa (-) các cơ sở DNA thay vì chỉ là một cặp biến thể đơn giản. Tùy thuộc vào vị trí bộ gen, việc chèn hoặc xóa có thể đại diện cho phiên bản điển hình của SNP. Nói cách khác, có một số điểm đánh dấu trong đó có thêm một cơ sở (chèn) là biến thể điển hình và có một xóa là biến thể ít phổ biến hơn. Ngược lại, có một số vị trí trong bộ gen hiếm khi xảy ra sự chèn, tạo nên việc xóa biến thể điển hình tại vị trí đó.
Bộ Gen tham chiếu
Các kết quả của Sitragene chỉ ra các vị trí SNP (đa hình đơn nucleotide) và các cơ sở ADN dựa trên bộ gen tham chiếu của con người NCBI (một phiên bản chuẩn của trình tự nucleotide của bộ gen người). Cả dữ liệu thô, cũng như các tính năng và báo cáo của trang web, hiện đang sử dụng bộ gen người GRCh37 (bản dựng 37).
ADN bao gồm hai sợi bổ sung cho nhau. Cơ sở ADN “A” luôn ghép với “T” và “G” luôn luôn ghép với “C” trên hai chuỗi này. Một chuỗi được gọi là chuỗi dương (+) và chuỗi còn lại được gọi là chuỗi âm (-).
Các kiểu gen được hiển thị trên trang web Sitragene, bao gồm trong tính năng Dữ liệu thô, luôn đề cập đến chuỗi (+) tích cực trên bản dựng 37 của bộ gen tham chiếu của con người.
Xin lưu ý rằng các trang web hoặc ấn phẩm khác đôi khi có thể đề cập đến chuỗi tiêu cực khi báo cáo kiểu gen. Nếu các kiểu gen có thể được báo cáo bởi Sitragene và một nguồn khác không khớp, có khả năng chúng đang đề cập đến các chuỗi ADN bổ sung chứ không phải là cùng một chuỗi. Ví dụ: Sitragene có thể báo cáo rằng SNP có hai phiên bản G và A. Nhưng các nguồn khác có thể báo cáo rằng các phiên bản cho SNP đó là C và T. Cả hai cách báo cáo SNP đều đúng, vì G được ghép nối với C trên dải đối diện và A được ghép với T.
Dữ liệu thô do Sitragene cung cấp đã trải qua đánh giá chất lượng chung, tuy nhiên chỉ có một tập hợp các điểm đánh dấu được xác nhận riêng cho độ chính xác. Dữ liệu từ Sitragene chỉ phù hợp cho mục đích tham khảo thông tin và không sử dụng cho mục đích y tế, chẩn đoán hoặc sử dụng khác.